Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến vấn đề dân tộc, công tác dân tộc và đồng bào các dân tộc Việt Nam. Tình cảm và tấm lòng của Người có sức động viên to lớn đối với đồng bào các dân tộc. Và chính Người cũng đã nêu một tấm gương sáng về đoàn kết, giúp đỡ đồng bào các dân tộc thiểu số.
“Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau... Giang sơn và Chính phủ là giang sơn và Chính phủ chung của chúng ta. Vậy nên tất cả dân tộc chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ để giữ gìn nước non ta, để ủng hộ Chính phủ ta. Chúng ta phải thương yêu nhau, phải kính trọng nhau, phải giúp đỡ nhau để mưu hạnh phúc chung của chúng ta và con cháu chúng ta. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng lòng đoàn kết của chúng ta không bao giờ giảm bớt. Chúng ta quyết góp chung lực lượng lại để giữ vững quyền tự do, độc lập của chúng ta" (Hồ Chí Minh toàn tập, sđd, tập 4)
“Nước ta là một đất nước thống nhất gồm nhiều dân tộc. Các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ. Các dân tộc anh em trong nước ta gắn bó ruột thịt với nhau trên một lãnh thổ chung và trải qua một lịch sử lâu đời cùng nhau lao động và đấu tranh để xây dựng Tổ quốc tươi đẹp… Chính sách dân tộc của chúng ta là nhằm thực hiện sự bình đẳng giúp nhau giữa các dân tộc để cùng nhau tiến lên chủ nghĩa xã hội” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật)
“Ai cũng phải thừa nhận rằng: Cương lĩnh Mặt trận rất vững chắc, rất rộng rãi và thiết thực” (Cương lĩnh Mặt trận)
"…Mục đích phấn đấu của Mặt trận dân tộc thống nhất là xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập dân chủ và giàu mạnh”.
(Hồ Chí Minh toàn tập, Nhà xuất bản sự thật HN.1989, trang 401, tập9)
“Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng lòng đoàn kết của chúng ta không bao giờ giảm bớt. Chúng ta quyết góp ý chung lực lượng lại để giữ vững quyền tự do, độc lập của chúng ta”
(Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Sự Thật Hà Nội, 1984, t.4, tr 126-139).
"Mặt trận dân tộc thống nhất cần mở rộng hơn nữa, củng cố hơn nữa, đoàn kết tất cả những người thực sự yêu Tổ quốc, yêu hòa bình, không phân biệt họ thuộc đảng phái nào, tôn giáo nào, tầng lớp nào và quá khứ của họ đã hợp tác với phe phái nào." (Thư gửi chúc mừng Đại hội Mặt trận tháng 9/1955)
“Vì lời ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người” (Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi Người đến dự và phát biểu tại “Lớp học chính trị của giáo viên cấp II, cấp III toàn miền Bắc”, ngày 13-9-1958)
“Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành” (Chủ tịch Hồ Chí Minh)
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ ngày từ khi nước nhà mới giành được độc lập tháng 9-1945: “Chúng ta cần phải xây dựng lại cơ đồ mà tổ tiên đã để lại cho chúng ta, làm sao cho chúng ta theo kịp các nước khác trên hoàn cầu. Trong công cuộc kiến thiết đó, nước nhà trông mong chờ đợi ở các em rất nhiều. Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không…, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”.
“Trách nhiệm nặng nề và vẻ vang của người thầy học là: Chăm lo dạy dỗ con em của nhân dân thành người công dân tốt, người lao động tốt, người chiến sĩ tốt, người cán bộ tốt của nước nhà”. (Chủ tịch Hồ Chí Minh)
“…Người thầy giáo tốt là người vẻ vang nhất. Dù tên tuổi không có trên báo, không được thưởng huân chương, song những người thầy giáo tốt là những anh hùng vô danh…”. (Ngày 21-10-1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm Trường Đại học Sư phạm Hà Nội)
Trong Lá thư gửi Hội nghị Giáo dục toàn quốc tháng 3/1955, Bác Hồ đã viết: “Trách nhiệm nặng nề và vẻ vang của người thầy là chăm lo cho con em của nhân dân thành người công dân tốt, người lao động tốt, người chiến sĩ tốt, người cán bộ tốt của nước nhà”
“Các cô, các chú đều biết, giáo viên ngày nay không phải là “gõ đầu trẻ kiếm cơm”, mà là người phụ trách đào tạo những công dân tiến bộ, những cán bộ tiến bộ cho dân tộc. Nhiệm vụ ấy rất là vẻ vang. Các cô, các chú phải ngày càng tiến bộ để dạy cho con em ngày càng tiến bộ, nếu không thì sẽ ảnh hưởng không tốt đến con em” (1959 – tại lớp học chính trị của giáo viên)
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng giáo dục phải có tính toàn diện, trong đó giáo dục đạo đức là gốc rễ, nền tảng. Trong thư gửi các em học sinh nhân ngày mở trường 24/10/1955, Người nhắn nhủ việc giáo dục gồm có:
- Thể dục: Để làm thân thể mạnh khoẻ, đồng thời cần giữ vệ sinh riêng và vệ sinh chung.
- Trí dục: Ôn lại những điều đã học, học thêm những tri thức mới.
- Mỹ dục: Để phân biệt cái gì là đẹp, cái gì là không đẹp.
- Đức dục: Là yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, yêu trọng của công”.
Cả bốn nội dung trên của giáo dục được Chủ tịch Hồ Chí Minh khái quát lại trong hai chữ “tài” và “đức”.
Hình ảnh Bác Hồ với thế hệ thanh thiếu niên Việt Nam
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà…”. Vì vậy, Người luôn luôn quan tâm, giáo dục các thế hệ thanh niên và dành nhiều thời gian đi thăm các đơn vị thanh niên xung phong, viết nhiều thư gửi thanh niên, theo dõi chặt chẽ và khen thưởng kịp thời những cố gắng về mọi mặt của thanh niên.
Luôn quan tâm, chăm lo và đặt niềm tin vào thế hệ trẻ - chủ nhân tương lai của nước nhà, trước lúc đi xa, trong Di chúc, Người căn dặn: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”. Lời căn dặn đó có ý nghĩa lịch sử và thời đại sâu sắc, nhất là trong bối cảnh hiện nay khi yêu cầu phát triển đất nước và hội nhập quốc tế đang đặt lên vai thế hệ trẻ những trọng trách lớn lao. Mãi khắc ghi tình cảm, những lời dạy của Bác, thế hệ trẻ Việt Nam hôm nay với tinh thần “Đâu cần thanh niên có, đâu khó có thanh niên” đã và đang ra sức học tập, rèn luyện để trở thành lực lượng chính, đóng góp quan trọng vào sự phát triển của đất nước, đúng như những kỳ vọng của Bác Hồ kính yêu
Những tác phẩm nổi tiếng của Bác Hồ
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại một sự nghiệp văn học, báo chí có giá trị lớn lao với những tác phẩm đa dạng về thể loại và đặc sắc về phong cách sáng tạo.
Một số bài thơ tiêu biểu của Bác:
60. Thơ bằng chữ Quốc ngữ “Pác Bó hùng vĩ” (08/02/1941)
“Non xa xa, nước xa xa,
Nào phải thênh thang mới gọi là.
Đây suối Lênin, kia núi Mác.
Hai tay xây dựng một sơn hà”.
61. Thơ bằng chữ Quốc ngữ “Tức cảnh Pác Bó”
“Sáng ra bờ suối, tối vào hang,
Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng.
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng,
Cuộc đời cách mạng thật là sang”.
62. Thơ bằng chữ Quốc ngữ “Lịch sử nước ta” (02/1942)
“Dân ta xin nhớ chữ đồng:
Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh!”.
Bản diễn ca lịch sử này gồm 208 câu lục bát, trình bày lịch sử nước ta từ thời Vua Hùng dựng nước (năm Nhâm Ngọ 2879 trước Công nguyên) đến năm 1945, tập trung chủ yếu vào lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm của nhân dân ta, nêu bật truyền thống yêu nước, bất khuất và đoàn kết của dân tộc.
63. Thơ chữ hán Nhật ký trong tù
Ngày 29 tháng 8 năm 1942, trên đường đi đến Túc Vinh, Quảng Tây; Người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam và bị chúng đầy ải qua gần 30 nhà giam của 13 huyện thuộc tỉnh Quảng Tây, trong khoảng thời gian 13 tháng, đến ngày 10 tháng 9 năm 1943 mới được thả tự do, nhưng vẫn ở lại Liễu Châu hoạt động khoảng gần một năm trời nữa mới có điều kiện trở về nước. Trong thời gian bị cầm tù, Người đã sáng tác 133 bài thơ bằng chữ Hán được ghi trong một cuốn sổ tay mà Bác đặt tên là Ngục trung nhật ký (tức Nhật ký trong tù).
Tiếng thơ của con người vĩ đại trong hoàn cảnh tù đầy đã thể hiện viên mãn nhân cách cao cả, lòng nhân ái bao la, bản lĩnh phi thường. Chúng ta càng tự hào về Chủ tịch Hồ Chí Minh anh hùng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới, chính Người đã làm rạng rỡ mỗi con người chúng ta, dân tộc ta, non sông đất nước ta.
64. Thơ Cảnh rừng Việt Bắc - Năm 1947
Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay,
Vượn hót chim kêu suốt cả ngày,
Khách đến thì mời ngô nếp nướng,
Săn về thường chén thịt rừng quay,
Non xanh, nước biếc tha hồ dạo,
Rượu ngọt, chè tươi mặc sức say.
Kháng chiến thành công ta trở lại,
Trăng xưa, hạc cũ với xuân này.
65. Thơ chữ Hán “Nguyên Tiêu” 24-2-1948
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư khen ngợi toàn thể bộ đội Khu II và Khu III về thành tích đã xóa nạn mù chữ.
Trong thư, Người nêu rõ: “Dốt nát cũng là kẻ địch. Địch dốt nát giúp cho địch ngoại xâm. Địch dốt nát tấn công ta về tinh thần, cũng như địch thực dân tấn công ta bằng vũ lực. Địch thực dân dựa vào địch dốt nát để thi hành chiến lược ngu dân Địch dốt nát dựa vào địch thực dân để đưa dân ta vào nơi mù quáng”. Người căn dặn: “Sự học hỏi là vô cùng... Một quân độ văn hay võ giỏi, là một quân đội vô địch”.
Đêm, sau khi dự một cuộc hội nghị ở chốn “Yên ba thâm xứ”, Người xuôi thuyền về căn cứ. Nhân trăng sáng cảnh đẹp Người làm bài thơ chữ Hán:
NGUYÊN TIÊU
Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,
Xuân giang, xuân thủy tiếp xuân thiên.
Yên ba thâm xứ đàm quân sự,
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.
Một số truyện, ký, kịch tiêu biểu của Bác:
66. “Pari”– Truyện ngắn đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc được đăng liền hai kỳ trên báo L’Humanité (báo Nhân đạo) (Ngày 30,31/5/1922)
Dưới hình thức một bức thư, thông qua việc miêu tả chân thực gương mặt của một vùng Quận 17 Pari gồm ba xóm cư dân tiêu biểu cho “những thứ bậc xã hội” của nước Pháp: Giới thượng lưu, tầng lớp trung gian và những người thợ thuyền, tác giả thiên truyện muốn khái quát “đủ bộ mặt và đủ tâm lý của cả Pari, cả nước Pháp, cả vũ trụ”, “cái sang trọng của bên này và cái đau khổ của phía kia”, sự bất công giữa “một bên là giàu sang và nhàn rỗi, một bên là cần cù và thiếu thốn”.
67. Ngày 24-6-1922: Truyện “Lời than vãn của bà Trưng Trắc” đăng trên báo L’Humanité
Qua câu chuyện một giấc mơ của Khải Định gặp Trưng Trắc, tác giả mượn lời của vị nữ anh hùng dân tộc Trưng Trắc nguyền rủa Khải Định là tên vua “đớn hèn, bất lực và ngu dốt”, đã cam tâm làm tôi tớ cho thực dân Pháp, phản lại tổ tiên.
68. Ngày 20/7/1922: Ký “Những con người biết mùi hun khói” đăng trên báo L’Humanité
Bằng câu chuyện viễn tưởng về quang cảnh dân chúng tưng bừng chào đón lễ kỷ niệm lần thứ 50 ngày thành lập Cộng hòa Liên hiệp Phi tổ chức tại Haútxa (Haoussas)1) tháng 1-1998, tác giả tiên đoán về thắng lợi tất yếu của sự nghiệp giải phóng của các dân tộc thuộc địa và hướng đi tới của loài người tiến bộ.
69. Truyện ngắn “Vi hành” đăng trên báo L’Humanité (19/2/1923)
Tác giả đã tạo ra trong thiên truyện một tình huống nhầm lẫn rất độc đáo, rất hài hước để dựng lên hình ảnh hết sức mỉa mai và lố bịch về “đấng hoàng thượng Khải Định” trong chuyến “vi hành” sang Pháp, dưới con mắt của những người dân Pari đang háo hức những trò giải trí mới lạ.
70. Truyện ngắn “Con rùa” của Nguyễn Ái Quốc, đăng trên báo Le Paria năm 1925 (báo Người cùng khổ)
Qua câu chuyện viên xã trưởng nọ dâng lên quan sứ một con rùa để làm quà đấm mõm cho y, tác giả vạch trần tâm địa ty tiện nhỏ nhen của bọn quan lại thực dân ở thuộc địa.
71. Truyện “Giấc ngủ mười năm” (01/01/1949)
Với bút danh Trần Lực, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết cuốn Giấc ngủ mười năm, một truyện ngắn mang tính chất viễn tưởng.
72. Truyện “Vừa đi đường vừa kể chuyện”
Với bút danh T. Lan, tác phẩm Vừa đi đường, vừa kể chuyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt đầu được công bố trên báo Nhân Dân vào ngày 10-5-1961
Nội dung tác phẩm là những mẩu chuyện về đời hoạt động cách mạng của Người trước năm 1945 được kể lại trên đường đi chiến dịch Biên Giới (năm 1950) và trở về căn cứ kháng chiến ở Việt Bắc. Câu chuyện bắt đầu từ những ngày hoạt động bí mật ở Pháp những năm 1920, cho đến ngày Người được đặt chân lên mảnh đất địa đầu của Tổ quốc sau 30 năm xa cách.
73. Ngày 01/5/1922: Kịch “Con rồng tre”
Có những cây tre thân hình quằn quẹo. Những người chơi đồ cổ lấy về đẽo gọt thành con rồng. Nó là một đồ chơi. Là con rồng nhưng thật ra chỉ là một khúc tre. Là một khúc tre, nhưng lại hãnh diện có một tên hình dáng con rồng. Tuy vậy nó chỉ là một quái vật vô dụng. Sau khi được đọc bản thảo vở kịch, ông Lêô Pônđét, Chủ nhiệm Câu lạc bộ Phôbua đã đánh giá như sau: “Tôi đã đọc tập bản thảo. Thật là hay, thật là đẹp, lời văn vừa chải chuốt vừa gọn gàng, với những cái châm biếm dí dỏm của Arítxtôphan. Vở kịch này có đầy đủ ưu điểm để mang lên sân khấu”.
Một số tác phẩm chính luận tiêu biểu của Bác:
74. Bản yêu sách của nhân dân An Nam (1919)
Với số tiền ít ỏi dành dụm được, Nguyễn Ái Quốc đến nhà in Sácpăngchiê ở số 70 phố Gôbơlanh thuê in 6.000 bản truyền đơn nói trên, và đã phân phát trong các cuộc mít tinh ở Pari và một số thành phố khác. Nguyễn Ái Quốc còn tổ chức những cuộc nói chuyện giới thiệu bản Yêu sách và nguyện vọng của nhân dân An Nam đòi độc lập, tự do.
75. Bản án chế độ thực dân Pháp của Nguyễn Ái Quốc được xuất bản 1925
Tác phẩm dựa trên cơ sở một số bài viết của Người trong khoảng thời gian từ năm 1921 đến năm 1924. Tác phẩm này được một số đồng chí của Người xuất bản lần đầu tiên tại Thư quán lao động (Libraire du travail) ở Pari vào năm 1925.
Bản án chế độ thực dân Pháp gồm 12 chương, trong đó có một số bài đã đăng trên báo Le Paria. Nội dung của tác phẩm không chỉ tố cáo tội ác của chủ nghĩa đế quốc Pháp đối với dân tộc Việt Nam cũng như với các thuộc địa khác trên các mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội mà điều quan trọng là đã nêu lên những luận điểm cơ bản về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa.
76. Đường kách mệnh (1927)
Cuốn Đường cách mệnh, tập hợp các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc tại các khóa huấn luyện chính trị của Tổng bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Quảng Châu, được Bộ Tuyên truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức xuất bản tại Quảng Châu (Trung Quốc).
77. Tác phẩm chính luận: Tuyên ngôn độc lập (2-9-1945) (nội dung này hình quyển sách kèm câu tiêu biểu/mặt)
14 giờ, trong cuộc mít tinh tại vườn hoa Ba Đình, Hà Nội, trước hàng chục vạn đồng bào Thủ đô, trên diễn đàn cao và trang nghiêm, Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Người thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trịnh trọng tuyên bố với thế giới:
“Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”.
Sau khi Chính phủ lâm thời làm lễ tuyên thệ và nhân dân thề một lòng ủng hộ Chính phủ do Hồ Chí Minh lãnh đạo, Người nói:
“Độc lập tự do là của quý báu, quý giá vô ngần, ta đã khổ sở trong bao nhiêu năm mới giành được, cần phải cố gắng giữ gìn, bảo vệ”.
19 giờ, Hồ Chí Minh họp với đại biểu các tỉnh.
Cùng ngày, Người gửi thư cho toàn thể Hoa kiều ở Việt Nam.
Bức thư có đoạn: “Tôi xin thay mặt Chính phủ nhân dân lâm thời Việt Nam và toàn dân Việt Nam đưa bàn tay nồng nhiệt hoan nghênh anh em Hoa kiều sinh sống trên đất nước ta, mong rằng anh em hai nước chúng ta thân mật đoàn kết, có việc gì thì giải quyết với nhau theo nguyên tắc hợp pháp, hợp lý với thái độ kính trọng nhường nhịn lẫn nhau, không được vì những việc tranh chấp nhỏ của cá nhân mà gây điều bất hạnh ngăn cách giữa hai dân tộc”.
78. Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 19/12/1946
Sáng sớm, sau khi nhận được tối hậu thư của Bộ Chỉ huy quân đội Pháp, Hồ Chí Minh viết một bức thư gửi J. Xanhtơny, Ủy viên Cộng hòa Pháp tại Đông Dương. Nội dung bức thư như sau: “Những ngày vừa qua tình hình trở nên căng thẳng hơn. Thực là rất đáng tiếc. Trong khi chờ đợi quyết định của Pari, tôi mong rằng ông sẽ cùng ông Giám tìm một giải pháp để cải thiện bầu không khí hiện tại”.
Cùng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục chủ tọa Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp tại làng Vạn Phúc. Trong ngày, tại gác hai ngôi nhà của ông Nguyễn Văn Dương (làng Vạn Phúc), Hồ Chí Minh viết Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến
79. Sửa đổi lối làm việc: ký bút danh X.Y.Z (10-1947)
Cuốn sách gồm sáu phần: Phê bình và sửa chữa, Mấy điều kinh nghiệm, Tư cách và đạo đức cách mạng, Vấn đề cán bộ, Cách lãnh đạo, Chống thói ba hoa.
80. Tác phẩm Đạo đức cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ký bút danh Trần Lực, đăng trên tạp chí Học tập, số 12 năm 1958
Thời gian: 12-1958
Tác phẩm tập trung phân tích các vấn đề:
1. Vai trò của đạo đức cách mạng: “Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”.
2. Nội dung cơ bản và những chuẩn mực của đạo đức cách mạng: “Nói tóm tắt, thì đạo đức cách mạng là:
Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất.
Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng.
Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình. Hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc.
Ra sức học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, luôn luôn dùng tự phê bình và phê bình để nâng cao tư tưởng và cải tiến công tác của mình và cùng đồng chí mình tiến bộ”.
3. Đấu tranh loại trừ chủ nghĩa cá nhân, “kẻ địch hung ác của chủ nghĩa xã hội”.
Trong phần kết luận, tác giả nhấn mạnh:
“Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”.
81. “Lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước”
Tài liệu do Văn phòng Phủ Chủ tịch lưu giữ từ năm 1966. Sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, năm 1970 Văn phòng Phủ Chủ tịch giao cho Bảo tàng Hồ Chí Minh bảo quản3. Bản thảo gồm 4 bản (33 trang):
1. Bản thứ nhất, dự thảo đánh máy, 3 trang, tiếng Việt, chữ màu xanh trên giấy pôluya, có bút tích sửa của Chủ tịch Hồ Chí Minh với tiêu đề: Đồng bào và chiến sĩ yêu quí.
2. Bản thứ hai, đồng chí Vũ Kỳ chép tay, 3 trang có bút tích của Chủ tịch Hồ Chí Minh ghi tên 9 đồng chí để xin ý kiến. Tiêu đề là Hỡi đồng bào và chiến sĩ cả nước!
3. Bản thứ ba, đánh máy (7 bản), mỗi bản 3 trang có ý kiến của 7 đồng chí trong Bộ Chính trị và Ban Bí thư.. Tiêu đề giống bản 2.
4. Bản thứ tư, đánh máy (2 bản), mỗi bản 3 trang trong đó bản đánh máy trên giấy trắng dày, có bút tích của Người – là bản Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc trên Đài Tiếng nói Việt Nam sáng ngày 17-7-1966. Viết thêm trên tiêu đề bút bi đỏ: “Lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch’’
Lời kêu gọi khẳng định ý chí quyết tâm chiến đấu đến cùng của dân tộc Việt Nam để giành độc lập. Người khẳng định “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố xí nghiệp có thể bị tàn phá. Song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập tự do! Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn!”. Đây cũng chính là hiệu triệu đã được phát thường xuyên trên làn sóng Đài Tiếng nói Việt Nam trong thời gian đó.
82. Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Công bố năm 1969, có đề ngày 10/5 gồm 4 trang in khổ 14,5x22 cm. Trong lễ tang của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí Lê Duẩn, khi đó là Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đọc lời điếu và công bố Di chúc của Người.